Phan Thanh Giản là gì?

Phan Thanh Giản Tiếng Việt là gì? Định nghĩa, khái niệm, giải thích ý nghĩa từ Phan Thanh Giản trong văn hóa Việt Nam. Hiểu thêm từ ngữ Việt Nam ta với Từ Điển Số.Com.

Thông tin thuật ngữ Phan Thanh Giản tiếng Tiếng Việt

Có nghiên cứu sâu vào tiếng Việt mới thấy Tiếng Việt phản ánh rõ hơn hết linh hồn, tính cách của con người Việt Nam và những đặc trưng cơ bản của nền văn hóa Việt Nam. Nghệ thuật ngôn từ Việt Nam có tính biểu trưng cao. Ngôn từ Việt Nam rất giàu chất biểu cảm – sản phẩm tất yếu của một nền văn hóa trọng tình.

Theo loại hình, tiếng Việt là một ngôn ngữ đơn tiết, song nó chứa một khối lượng lớn những từ song tiết, cho nên trong thực tế ngôn từ Việt thì cấu trúc song tiết lại là chủ đạo. Các thành ngữ, tục ngữ tiếng Việt đều có cấu trúc 2 vế đối ứng (trèo cao/ngã đau; ăn vóc/ học hay; một quả dâu da/bằng ba chén thuốc; biết thì thưa thốt/ không biết thì dựa cột mà nghe…).

Định nghĩa - Khái niệm

Phan Thanh Giản tiếng Tiếng Việt?

Dưới đây sẽ giải thích ý nghĩa của từ Phan Thanh Giản trong tiếng Việt của chúng ta mà có thể bạn chưa nắm được. Và giải thích cách dùng từ trong Tiếng Việt. Sau khi đọc xong nội dung này chắc chắn bạn sẽ biết từ Phan Thanh Giản nghĩa là gì.

- (1796-1867)
- Danh sĩ, đại thần triều Nguyễn, tự Tĩnh Bá, Đạm Như, hiệu Lương Khê, Ước Phu, biệt hiệu Mai Xuyên, sinh năm 1796 tại Bảo Thạnh, huyện Bảo An, Vĩnh Long (nay là huyện Ba Tri, Bến Tre), tự tử ngày 04-08-1867 tại Vĩnh Long, sau khi Pháp chiếm thành do ông trấn giữ
- Năm 1825, đỗ cử nhân, năm 1826 đỗ tiến sĩ, ông là vị Tiến sĩ đầu tiên ở miền Nam, làm quan trải qua ba triều Minh Mạng, Thiệu Trị,Tự Đức, nhiều lần thăng giáng, Hiệp biện đại học sĩ, Thượng thư bộ Hình và bộ Hộ.Từng đi sứ Trung Quốc, In-đô-nê-xi-a, Xing-ga-po, Pháp, Tây Ban Nha. Năm 1862, ông cùng Lâm Duy Hiệp đại diện cho triều đình Tự Đức ký kết Hòa ước Nhâm Tuất (ngày 05-06-1862) giao trọn ba tỉnh miền Đông Nam kỳ cho Pháp. Năm 1863, ông được cử làm Chánh sứ (Phó sứ Phạm Phú Thứ và Ngụy Khắc Đản) sang Pháp thương nghị chuộc ba tỉnh miền Đông Nam kỳ, nhưng không có kết quả. Trở về Long (1867), ông thụ động để mất thành, từ đó ba tỉnh miền Tây Nam kỳ rơi tiếp vào tay giặc chỉ trong mấy ngày (24-06-1867). Sau khi thành mất ông tuyệt thực suốt 17 ngày, rồi uống thuốc độc tự tử
- Ông tính cương trực, khẳng khái, hiếu nghĩa, thanh liêm, không ai không kính phục, nhưng trong cơn nước biến, thái độ chủ hòa của ông đã làm giảm giá trị của ông, lại còn bị Tự Đức cho đục bỏ tên ở bia Tiến sĩ. Tuy nhiên, vẫn có một số trí thức tỏ lòng thương tiếc tài năng và nhân cách của ông. Khi sắp mất, ông dặn con cháu, không được cộng tác với giặc Pháp và tự tay viết mấy dòng chữ trao cho người nhà: "Minh sinh thỉnh tỉnh, nhược vô, ưng thư: Hải nhai lão thư thư sinh tính Phan chi cửu" (Tấm triệu hãy bỏ đi không cần có, nếu không bỏ thì chỉ nên để lòng triệu (tấm minh sinh: linh cửu người học trò già ở góc biển họ Phan)
- Trong các thơ văn truy niệm, bài thơ của Nguyễn Đình Chiểu gây cảm xúc mạnh hơn cả. Phan Thanh Giản là một nhà văn lớn, ông có nhiều tác phẩm có giá trị:" Lương khê thi thảo, Lương khê văn thảo, Sứ thanh thi tập, Tây phù nhật ký, Ước phu thi tập, Tích ung canh ca hội tập, Sứ trình thi tập, Việt sử thông giám cương mục, Minh Mạng chính yếu

Thuật ngữ liên quan tới Phan Thanh Giản

Tóm lại nội dung ý nghĩa của Phan Thanh Giản trong Tiếng Việt

Phan Thanh Giản có nghĩa là: - (1796-1867). - Danh sĩ, đại thần triều Nguyễn, tự Tĩnh Bá, Đạm Như, hiệu Lương Khê, Ước Phu, biệt hiệu Mai Xuyên, sinh năm 1796 tại Bảo Thạnh, huyện Bảo An, Vĩnh Long (nay là huyện Ba Tri, Bến Tre), tự tử ngày 04-08-1867 tại Vĩnh Long, sau khi Pháp chiếm thành do ông trấn giữ. - Năm 1825, đỗ cử nhân, năm 1826 đỗ tiến sĩ, ông là vị Tiến sĩ đầu tiên ở miền Nam, làm quan trải qua ba triều Minh Mạng, Thiệu Trị,Tự Đức, nhiều lần thăng giáng, Hiệp biện đại học sĩ, Thượng thư bộ Hình và bộ Hộ.Từng đi sứ Trung Quốc, In-đô-nê-xi-a, Xing-ga-po, Pháp, Tây Ban Nha. Năm 1862, ông cùng Lâm Duy Hiệp đại diện cho triều đình Tự Đức ký kết Hòa ước Nhâm Tuất (ngày 05-06-1862) giao trọn ba tỉnh miền Đông Nam kỳ cho Pháp. Năm 1863, ông được cử làm Chánh sứ (Phó sứ Phạm Phú Thứ và Ngụy Khắc Đản) sang Pháp thương nghị chuộc ba tỉnh miền Đông Nam kỳ, nhưng không có kết quả. Trở về Long (1867), ông thụ động để mất thành, từ đó ba tỉnh miền Tây Nam kỳ rơi tiếp vào tay giặc chỉ trong mấy ngày (24-06-1867). Sau khi thành mất ông tuyệt thực suốt 17 ngày, rồi uống thuốc độc tự tử. - Ông tính cương trực, khẳng khái, hiếu nghĩa, thanh liêm, không ai không kính phục, nhưng trong cơn nước biến, thái độ chủ hòa của ông đã làm giảm giá trị của ông, lại còn bị Tự Đức cho đục bỏ tên ở bia Tiến sĩ. Tuy nhiên, vẫn có một số trí thức tỏ lòng thương tiếc tài năng và nhân cách của ông. Khi sắp mất, ông dặn con cháu, không được cộng tác với giặc Pháp và tự tay viết mấy dòng chữ trao cho người nhà: "Minh sinh thỉnh tỉnh, nhược vô, ưng thư: Hải nhai lão thư thư sinh tính Phan chi cửu" (Tấm triệu hãy bỏ đi không cần có, nếu không bỏ thì chỉ nên để lòng triệu (tấm minh sinh: linh cửu người học trò già ở góc biển họ Phan). - Trong các thơ văn truy niệm, bài thơ của Nguyễn Đình Chiểu gây cảm xúc mạnh hơn cả. Phan Thanh Giản là một nhà văn lớn, ông có nhiều tác phẩm có giá trị:" Lương khê thi thảo, Lương khê văn thảo, Sứ thanh thi tập, Tây phù nhật ký, Ước phu thi tập, Tích ung canh ca hội tập, Sứ trình thi tập, Việt sử thông giám cương mục, Minh Mạng chính yếu

Đây là cách dùng Phan Thanh Giản Tiếng Việt. Đây là một thuật ngữ Tiếng Việt chuyên ngành được cập nhập mới nhất năm 2024.

Kết luận

Hôm nay bạn đã học được thuật ngữ Phan Thanh Giản là gì? với Từ Điển Số rồi phải không? Hãy truy cập tudienso.com để tra cứu thông tin các thuật ngữ chuyên ngành tiếng Anh, Trung, Nhật, Hàn...liên tục được cập nhập. Từ Điển Số là một website giải thích ý nghĩa từ điển chuyên ngành thường dùng cho các ngôn ngữ chính trên thế giới.